Thêm trợ lực để doanh nghiệp bứt phá trong 6 tháng cuối năm

Hương Lan - Hoài An 04/07/2024 12:42

6 tháng đầu năm 2024, GDP của Việt Nam đạt 6,42% cùng sự khởi sắc của nhiều ngành kinh tế mũi nhọn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn còn gặp khó khăn, thách thức và cần thêm 'trợ lực' bứt tốc trong những tháng cuối năm.

Lãi suất tuy đã giảm nhưng vẫn ở mức cao, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất. (Ảnh minh hoạ)

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 6/2024 ước đạt 33,09 tỷ USD, tăng 2,6% so với tháng trước và tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý II/2024, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 97,2 tỷ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước và tăng 4,6% so với quý I/2024. Tính chung sáu tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 190,08 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước. Cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 11,63 tỷ USD

Theo đánh giá của Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu tới hầu hết các thị trường, đối tác thương mại lớn đều có sự phục hồi tốt và đạt mức tăng trưởng cao.Ở nhiều địa phương, sự phục hồi sản xuất, xuất khẩu có chiều hướng tích cực. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn còn gặp khó khăn, thách thức.

Về tình hình doanh nghiệp, Tổng cục Thống kê cho biết, chỉ trong 6 tháng đầu năm cả nước có 110,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, bình quân gần 18,4 nghìn doanh nghiệp/tháng. Con số này gần đuổi kịp tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động là 119,6 nghìn doanh nghiệp, trung bình 19,9 nghìn doanh nghiệp/tháng.

Về hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD), theo kết quả khảo sát của Tổng cục Thống kê với trên 30.000 doanh nghiệp hoạt động trong các nhóm ngành chủ lực đóng góp tăng trưởng gồm chế biến, chế tạo; xây dựng và thương mại dịch vụ cho thấy, có 73,5% doanh nghiệp nhận định hoạt động SXKD quý II/2024 tốt hơn và giữ ổn định so với quý I/2024; có 26,5% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn. Phần lớn các doanh nghiệp đều gặp khó khăn ở cả đầu vào và đầu ra, đặc biệt là thị trường đầu ra.

Về đầu ra, “nhu cầu thị trường trong nước thấp” và “tính cạnh tranh của hàng trong nước cao” là hai yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp với tỷ lệ doanh nghiệplựa chọn lần lượt là 53,8% và 43,6%. Riêng đối với doanh nghiệp xây dựng có 46,9% doanh nghiệp gặp khó khăn do “không có hợp đồng xây dựng mới”.

Về các yếu tố đầu vào cho sản xuất kinh doanh, giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào, chi phí vận tải kho bãi, chi phí các dịch vụ tăng cao vẫn là khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp với 27,4% doanh nghiệp lựa chọn;18,1% doanh nghiệp sản xuất gặp khó khăn do thiếu nguyên, nhiên, vật liệu.

Cần thực hiện chương trình đào tạo nghề và kỹ năng đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. (Ảnh minh hoạ)

Để đạt được mục tiêu Quốc hội đặt ra đối với thương mại quốc tế của Việt Nam, Tổng cục Thống kê đề xuất Bộ Công Thương tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa; xây dựng, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách kinh tế, thương mại cần thực hiện đồng bộ và thường xuyên; tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng và minh bạch.

Bên cạnh đó, ngành công thương phát triển xuất khẩu bền vững đi liền với đa dạng hóa thị trường hướng đến cán cân thương mại lành mạnh, hợp lý với các đối tác. Thực tế cho thấy, Việt Nam đang phụ thuộc chủ yếu vào một số thị trường xuất khẩu lớn. Vì vậy, khi các quốc gia này rơi vào giai đoạn khủng hoảng, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đối mặt với những cú sốc lớn và bị gián đoạn.

Cùng với đó, ngành công thương cần giảm thiểu rủi ro do điều tra phòng vệ thương mại hướng tới tăng trưởng xuất khẩu bền vững; đẩy mạnh công tác dự báo, cảnh báo sớm cho các doanh nghiệp những mặt hàng có thể gặp rủi ro bị tiến hành điều tra; đồng thời, thực hiện các giải pháp chứng minh hàng hóa Việt Nam không bán phá giá…

Đồng thời, bà Đinh Thị Thúy Phương, Vụ trưởng Vụ Thống kê Thương mại và dịch vụ, Tổng cục Thống kê đề xuất: Chính phủ cần đa dạng giải pháp đồng hành cùng doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, xuất khẩu, kích cầu tiêu dùng; đảm bảo tăng trưởng các chỉ tiêu công nghiệp, thương mại... ; đồng thời, các doanh nghiệp cần tận dụng cơ hội từ các FTA mang lại.

Đối với địa phương, doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức, Vụ trưởng Vụ Thống kê Thương mại và dịch vụ cho rằng, cần nắm rõ thông tin thị trường, nhu cầu thị hiếu tiêu dùng, cơ chế chính sách nhập khẩu tại các thị trường đặc biệt là các thị trường có FTA, từ đó ,xây dựng kế hoạch tổ chức sản xuất hàng hóa đáp ứng yêu cầu của các thị trường, lựa chọn thị trường phù hợp với lợi thế của địa phương, góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa bền vững.

Hương Lan - Hoài An