Trước những diễn biến mới trên thị trường xuất khẩu gạo, tại cuộc họp về tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long do Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) tổ chức, vấn đề được đặt ra là cần có những chính sách kịp thời nhằm hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh gạo.
Nguồn cung trong nước cơ bản đảm bảo
Theo Bộ NN&MT, khối lượng xuất khẩu gạo tháng 2/2025 ước đạt 560.000 tấn với giá trị đạt 288,2 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo hai tháng đầu năm 2025 đạt 1,1 triệu tấn với 613 triệu USD, tăng 5,9% về khối lượng nhưng giảm 13,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Hai tháng đầu năm 2025, giá xuất khẩu gạo trung bình ước đạt 553,6 USD/tấn, giảm 18,3% so với cùng kỳ. Trong những ngày đầu tháng 3/2025, giá gạo xuất khẩu ở mức 310 USD/tấn gạo 100% tấm; gạo 5% là 393 USD/tấn; gạo 25% tấm 367 USD/tấn.
Về chủng loại gạo xuất khẩu, gạo trắng chiếm khoảng 71%, giá trung bình từ 523 - 540 USD/tấn chủ yếu xuất khẩu sang Philippines, Indonesia, và châu Phi. Gạo thơm như Jasmine, Đài thơm, ST24, ST25 chiếm 19%, giá từ 640-700 USD/tấn, chủ yếu sang EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản. Gạo nếp chiếm 6% xuất khẩu sang Trung Quốc, Philippines và một số nước Đông Nam Á khác. Còn lại là gạo Japonica và gạo đặc sản khác.
Dự báo về nguồn cung, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ NN&MT) cho biết, diện tích gieo cấy lúa năm 2025 dự kiến đạt 7,03 triệu ha, giảm 70.000 ha so với năm 2024. Nguyên nhân chủ yếu do chuyển đổi đất trồng lúa sang các mục đích phi nông nghiệp và các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn.
Tuy nhiên, năng suất trung bình dự kiến tăng lên mức 61,3 tạ/ha, giúp sản lượng lúa đạt 43,1 triệu tấn, giảm 170.000 tấn so với năm 2024.
Với 43,1 triệu tấn, tương đương khoảng 27,4 triệu tấn gạo (sau chế biến và trừ hao tổn thất). Trong đó, sản lượng xuất khẩu dự kiến từ 6-6,5 triệu tấn.
Philippines là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 38,6%. Bờ Biển Ngà và Gana là hai thị trường lớn tiếp theo với thị phần tương ứng là 15,9% và 12,3%.
Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu gạo tăng mạnh nhất ở thị trường Thổ Nhĩ Kỳ với mức tăng 600,7 lần và giảm mạnh nhất ở thị trường Campuchia với mức giảm 39,3%.
Bộ NN&MT nhận định, nhu cầu nhập khẩu gạo trên toàn cầu vẫn có khả năng duy trì cao. Việt Nam có ưu thế gạo thơm và chất lượng cao được ưa chuộng tại các thị trường cao cấp như EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Nguồn cung trong nước cơ bản đảm bảo và thời tiết thuận lợi tại một số vùng trồng chính.
Tuy nhiên, gạo Việt Nam chịu sự cạnh tranh gia tăng trên thị trường quốc tế. Bởi Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo trắng từ tháng 9/2024 tạo áp lực lớn lên các quốc gia xuất khẩu khác, đặc biệt là gạo trắng cấp thấp. Gạo giá rẻ từ Pakistan và Myanmar tiếp tục chiếm ưu thế ở các thị trường nhạy cảm về giá như châu Phi, Trung đông. Gạo thơm Thái Lan vẫn duy trì vị thế cao cấp, gây áp lực cạnh tranh trong phân khúc gạo chất lượng cao… Trong khi đó, chi phí sản xuất lúa gạo tăng cao.
Với những diễn biến trên thị trường xuất khẩu gạo cho thấy, cần có những chính sách kịp thời để hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh.
Cần giải pháp để ổn định thị trường, thúc đẩy xuất khẩu gạo
Tại thị trường trong nước, theo UBND tỉnh An Giang, năm 2024, tỉnh đã xuất khẩu 587.000 tấn gạo, tương đương 340 triệu USD. Trong hai tháng đầu năm 2025, An Giang xuất khẩu gạo đạt 29.900 tấn, tương 15,2 triệu USD.
Trước diễn biến của tình hình lúa gạo hiện nay, tỉnh An Giang đề xuất Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương tiếp tục quan tâm hỗ trợ các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long mời các tập đoàn, doanh nghiệp đến đầu tư liên kết sản xuất nông nghiệp, giúp hình thành chuỗi sản xuất, tiêu thụ ổn định.
Đồng thời, cần có chính sách ưu đãi hơn nữa để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn để việc ký kết, xuất khẩu với đối tác nước ngoài được ổn định, giúp hoạt động sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững.
Cùng với đó, An Giang cũng đề nghị Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam kết nối các doanh nghiệp chế biến lúa gạo để xây dựng các vùng nguyên liệu lúa gạo tại An Giang đảm bảo ổn định về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu chế biến xuất khẩu của doanh nghiệp...
Về phía hiệp hội, ngành hàng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) Đỗ Hà Nam kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp tiếp cận được vốn, có khả năng trữ hàng, từ đó chủ động hơn về giá hàng hóa.
Tăng hạn mức cho các doanh nghiệp xuất khẩu, các doanh nghiệp cung ứng gạo, kéo dài thời gian cho vay mua gạo để từ đó có thể bán cho các thị trường với giá tốt hơn cũng như kéo dài thời hạn trữ hàng, tránh tình trạng bán hàng ồ ạt. Thêm nữa, đề xuất lãi vay cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở mức thấp nhất có thể.
Bên cạnh đó, VFA đề nghị Bộ Công Thương đưa ra quy định giá sàn về xuất khẩu gạo theo Nghị định 107/2018/NĐ-CP với mức giá Hiệp hội Lương thực Việt Nam đề nghị là 500 USD/tấn (giá FOB). Đồng thời, tăng cường kiểm tra các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, nhất là các doanh nghiệp chỉ đi thu mua mà không tham gia vào khâu chế biến, hoặc các doanh nghiệp chỉ tham gia thương mại mà không tham gia vào thị trường xuất khẩu.
Chỉ đạo tại cuộc họp, Bộ trưởng NN&MT Đỗ Đức Duy khẳng định: Trong hai tháng đầu năm, tình hình thị trường lúa gạo thế giới có nhiều biến động, đặc biệt là sau khi Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo và bắt đầu xuất khẩu trở lại vào tháng 9/2024.
Qua theo dõi và đánh giá của các cơ quan chức năng cũng như các hiệp hội ngành hàng cho thấy, nguyên nhân của việc giá gạo giảm đó là có sự mất cân đối cung - cầu trên thị trường thế giới. Trong đó, cung tăng mạnh, cầu có tăng, nhưng chưa kịp với tốc độ tăng của nguồn cung dẫn đến việc xuất khẩu gạo của Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt là giá giảm sâu so với năm 2024.
Vấn đề này cũng tác động đến thị trường trong nước, đặc biệt là khi đang vào thời điểm chính vụ Đông Xuân của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, sản lượng lớn.
Trước những biến động của thị trường lúa gạo thế giới, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đề nghị các địa phương tiếp tục cải thiện cơ cấu sản xuất theo hướng chuyển sang sản xuất lúa gạo chất lượng cao; nhất là ở các diện tích mở rộng, tăng vụ; thực hiện tốt Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp; tăng cường chế biến sâu, với những sản phẩm giá trị gia tăng từ lúa gạo; thực hiện sản xuất bền vững, thân thiện với môi trường...
Đồng thời, sau hội nghị này, Bộ sẽ tổng hợp thông tin, xây dựng và trình Chính phủ một công điện về việc điều hành đảm bảo cân đối cung cầu lúa gạo trước diễn biến thị trường thế giới và trong nước.