Đối với doanh nghiệp có lợi nhuận thực tế gấp 2 lần mức tối thiểu thì lương thực nhận tăng gấp 2,5 lần mức cơ bản (tối đa 200 triệu đồng/tháng); lợi nhuận gấp 3 lần thì lương tăng 3 lần so với mức cơ bản (tối đa 240 triệu đồng/tháng); lợi nhuận gấp 5 lần thì lương thực nhận tăng 4 lần so với mức cơ bản (tối đa 320 triệu đồng/tháng).
Doanh nghiệp mới thành lập hoặc mới đi vào hoạt động thì mức tiền lương trong năm đầu thành lập hoặc mới đi vào hoạt động tối đa không vượt quá mức lương cơ bản.
Doanh nghiệp mới thành lập trên cơ sở hợp nhất các doanh nghiệp, nếu mức tiền lương thấp hơn tiền lương thực tế ở mức cao nhất của các chức danh tương ứng của doanh nghiệp thành viên trước khi hợp nhất, thì được tính bằng mức tiền lương của các chức danh tương ứng đó.
Doanh nghiệp chỉ có hoạt động thực hiện sản phẩm, dịch vụ công thì được sử dụng chỉ tiêu khối lượng sản phẩm, dịch vụ công để đánh giá, xác định mức tiền lương.
Doanh nghiệp vừa có hoạt động thực hiện sản phẩm, dịch vụ công, vừa hoạt động sản xuất, kinh doanh (ngoài thực hiện sản phẩm, dịch vụ công) thì được lựa chọn xác định mức tiền lương theo hoạt động sản xuất, kinh doanh theo quy định.
Mức tiền lương của thành viên hội đồng, kiểm soát viên là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, viên chức quốc phòng, sĩ quan, hạ sĩ quan, người làm công tác cơ yếu không thấp hơn mức tiền lương theo chức vụ, chức danh, cấp hàm, ngạch, bậc, các khoản phụ cấp lương theo quy định của Chính phủ.
Mức thù lao của thành viên hội đồng, kiểm soát viên không chuyên trách được xác định dựa theo thời gian thực tế làm việc, nhưng tối đa không quá 20% mức tiền lương tương ứng của thành viên hội đồng, kiểm soát viên chuyên trách.