Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng lớn để trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng pin toàn cầu nhờ nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú.
Theo báo cáo từ Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA), nhu cầu pin toàn cầu dự kiến sẽ tăng mạnh, gấp 4,5 lần vào năm 2030 và hơn 7 lần vào năm 2035, do chính sách thúc đẩy năng lượng sạch.
Đặc biệt, Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng lớn để trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng pin toàn cầu nhờ nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, bao gồm niken, coban và đất hiếm.
Tuy nhiên, hiện nay chuỗi cung ứng pin của chúng ta vẫn đang trong giai đoạn khởi đầu với nhiều thách thức cần vượt qua. Việt Nam hiện xếp vị trí thứ 20 trong chuỗi cung ứng pin lithium-ion toàn cầu năm 2024.
Theo ông Lê Tuấn Anh, Vụ trưởng Vụ Kinh tế công nghiệp, dịch vụ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chia sẻ tại Hội thảo “Nâng cao chuỗi cung ứng pin cho chuyển dịch năng lượng” do Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP) thuộc UNOPS và Vụ Kinh tế công nghiệp, dịch vụ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) phối hợp tổ chức ngày 20/2, Việt Nam định hướng đến năm 2050 tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5 - 71,5%.
Đặc biệt, ngành xe điện (EV) của Việt Nam đang trên đà phát triển với mục tiêu đạt 100% xe điện vào năm 2050. Điều này sẽ kéo theo nhu cầu lớn về pin, không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn hướng tới xuất khẩu, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Vụ trưởng Vụ Kinh tế công nghiệp, dịch vụ nhận định: “Năng lượng sản xuất các vật liệu quan trọng cho sản xuất pin của Việt Nam vẫn còn hạn chế, các chính sách hỗ trợ còn cần hoàn thiện và sự cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Sự phụ thuộc vào các nguồn cung cấp nguyên liệu từ nước ngoài cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc xây dựng chuỗi cung ứng nội địa mạnh mẽ và linh hoạt hơn”.
Cũng tại hội thảo, PGS.TS Đinh Công Hoàng, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam nhấn mạnh Việt Nam đang nổi lên là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng xe điện toàn cầu, đặc biệt trong lĩnh vực cung cấp nguyên liệu thô và sản xuất pin xe điện, với trữ lượng niken đáng kể tại các mỏ ở Sơn La.
PGS.TS Đinh Công Hoàng cho rằng, để hiện thực hóa tiềm năng này, Việt Nam cần triển khai các chiến lược phát triển bền vững như: đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ sản xuất pin tiên tiến, xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ, thúc đẩy hợp tác quốc tế và bảo đảm các tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt.
Bên cạnh đó, để nâng cao chuỗi cung ứng pin cho chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam, việc tham khảo kinh nghiệm quốc tế là cần thiết.
GS.TS Aruna Ranaweera, Đại học Kelaniya, Sri Lanka dẫn kinh nghiệm của Australia, nước này có sự hỗ trợ mạnh mẽ ngành pin thông qua các quỹ chính phủ và sáng kiến chiến lược như Quỹ năng lượng tái tạo, Chương trình đầu tư năng lực và chiến lược pin quốc gia.
Hay như Ấn Độ, việc phát hiện ra trữ lượng lithium tại Jharkhand và Rajasthan đã giúp nước này trở nên tự chủ hơn trong sản xuất pin. Việc sử dụng cơ chế tài trợ khoảng cách khả thi của Ấn Độ cho các dự án lưu trữ năng lượng độc lập giúp bù đắp sự chênh lệch giữa chi phí dự án và doanh thu dự kiến, từ đó thúc đẩy đầu tư.